Bài Thơ: Bình Ngô Đại Cáo
Câu hỏi lớn được đặt ra là: "Việc nhân nghĩa" là gì? "Quân điếu phạt" là quân như thế nào? "Việc nhân nghĩa" cốt yếu để đem lại cái gì? "Quân điếu phạt" là đội quân thực hiện những việc gì, không được làm những việc gì? Có định nghĩa được chính xác 2 vấn đề lớn trên thì mới xác định chính xác cái đúng, cái sai một cách chuẩn mực. Chừng nào chưa xác định được chính xác hai yếu tố trên, thì chưa thể phân định một cách r 841;ch ròi đúng sai. Chừng đó, thực hư vẫn còn lẫn lộn. Trên thực tế có lắm kẻ miệng lưỡi luôn nói nhân nghĩa, nhưng việc làm có thể hiện nhân nghĩa hay không lại là một vấn đề cần phải suy ngẫm. Cũng trong thực tế, có nhiều đội quân nói là "điếu phạt", nhưng chuyên đi làm việc ác. Đội quân ấy không thấy giúp dân ở đâu, mà chỉ thấy hại dân. Cho nêm, muốn biết được thực hư, tốt xấu thì chỉ có thể thông qua hành động, chứ không thể thông quan l̖ 1;i nói. Nói lời nói mỹ miều chỉ nhằm để mỹ dân; cốt sao đạt được mục đích, ý đồ đen tối là được, còn việc sống chết mặc bay. Qua đây, tác giả muốn vạch trần cái giả dối ban đầu của kẻ xâm lăng.
Tác giả đã đưa ra quan điểm rằng: "Việc nhân nghĩa chủ yếu là để an dân". Dân chúng lâm vào cảnh lầm than khổ cực mà nói là nhân nghĩa sao? Cưỡng bấc, bóc lột đến khánh kiệt dân chúng, mà luôn mở miệng là nói gì mình nhân nghĩa là tội ác. Đem quân đi đàn áp, bóc lột dân đen mà nói là quân "điếu phạt" là dối lừa.
Thông qua tác phẩm, tác giả đã vạch trần tính giả nhân giả nghĩa của quân thù. Chúng dùng nhân nghĩa để mỹ dân. Đem quân đánh nhà Hồ, giúp nhà Trần, thực chất là đem quân đi xâm lược. Thực tế đã chứng minh điều đó. Những hành động vơ vét, bóc lột đã làm lỗ rõ bản chất của chúng. Nhân dân ta đã phải lâm vào bao cảnh đau đớn điêu tàn.
Tác giả cũng quan niệm rằng: "Quân điếu phạt là đội quân trước tiên là tuyệt đối không đi làm việc ác". Quân "điếu phạt" là đội quân như thế nào? Quân "điếu phạt" là đội quân chuyên trừ khử kẻ ác, giúp đỡ dân lành. Ý nghĩa của hai từ "điếu phạt" đã nói lên điều đó.
Một đội quân chuyên đi bóc lột, hà hiếp dân lành một cách tàn nhẫn, vơ vét đến khánh kiệt mọi của cải, thì không thể gọi là quân "điếu phạt" được. Đó chỉ là đội quân "kẻ cướp". "Điếu phạt" cái nỗi gì. Thông qua tác phẩm, tác giả đã ngầm nói lên điều đó.
Xuy xét cho cùng thì Đại Việt là một nước độc lập, có núi song bờ cõi rọ ràng, có nền văn hiến lâu đời, có phong tục tập quán riêng biệt. Đại Việt đâu phải là một phần của lãnh thổ nhà Minh. Đại Việt là xóm giềng của nhà Minh. Đã là hàng xóm thì không thể đem quân đi "điếu phạt" được. Thông qua tác phẩm, tác giả cũng đã nói lên điều đó.
Tác giả đã tuyên bố với quân thù rằng: Nước Đại Việt là một dân tộc anh hùng, đã từng đánh tan biết bao kẻ thù xâm lược dù là mạnh là yếu. Quân Minh rồi cũng sẽ có kết cục như vậy thôi. Thực tế đã chứng minh điều đó.
Xin nói thêm rằng: Trước khi nhà Hồ cướp ngôi vua từ nhà Trần, đất nước ta có một nền thái bình thịnh trị từ Năm 939 đến 1400, từ Nhà Ngô đến Nhà Trần. Và đã bao lần kiên cường đánh tan quân xâm lăng hùng mạnh, đặc biệt là quân Nguyên Mông. Với tài trí của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, quân ta đã 3 lần đanh tan quân Nguyên.
Từ một đất nước đang yên bình, năm 1394 thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly đã thâu tóm toàn bộ quyền hành điều hành đất nước. Sau khi dời đô về Thanh Hoá và giết chết hàng loạt quan cận thần của nhà Trần, tháng 2 năm 1400, Hồ Quý Ly đã phế truất ngôi vua của Trần Thiếu Đế, và lên ngôi. Nhà Hồ đã lấy niên hiệu nước ta là Đại Ngu. Mặc dù Hồ Quý Ly là vị quan đại thần của nhà Trần, lại đi cướp ngôi vua và tàn sát hàng loạt cậ n thần của nhà Trần (Khoảng 370 người), làm cho dân chúng và quan lại lúc đó vô cùng căn phẫn. Có kẽ đã làm phản và cấu kết với quân Minh. Lấy cớ giúp nhà Trần, dẹp nhà Hồ, với sự hậu thuận của một số người Việt là quan lại hoặc con cháu nhà Trần đi theo quân Minh, năm 1406 quân Minh đem quân sang đánh nhà Hồ. Nhà Hồ chống cự không nổi, một năm sau thì thất thủ. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương (Con trai Hồ Quý Ly) bị giặc bắt đem về nước. Sau khi nhà Hồ thất thủ, quân M inh đã xát nhập nước ta thành một tỉnh của chúng. Chúng đã bóc lột, đàn áp dân ta một cách thậm tệ. Thông qua tác phẩm, tác giả đã vạch trần điều đó. Cụ thân sinh của Nguyễn Trãi cũng là một vị quan của nhà Hồ và bị giặc bắt vào thời gian đó. Bản thân Nguyễn Trãi trước cũng là một vị quan của nhà Hồ sau khi thi đậu Thái học sinh năm 1400.
Thông qua ba câu mở đầu trên, tác giả cũng muốn nói rằng: Nhà nước do cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lập thành là một nhà nước lấy dân làm gốc. Việc nhân nghĩa chủ yếu là để yên dân. Vì tổ quốc lâm vào cảnh mất nước, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, nên mới dấy quân khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa này nhằm để đánh tan quân xâm lược, thiết lập một đất nước độc lập, thái bình thịnh trị. Chân lý đó được tác giả thể hiện cụ thể trong toàn tác ph ẩm.
Rọ ràng rằng, Đại Việt ta là một nước độc lập, dân tộc ta là một dân tộc tự do, có núi sông bờ cõi rạch ròi, có phong tục bắc nam khác nhau. Ở đây, tác giả chỉ nói về nước "Đại Việt" (Triều đại nhà Trần), chứ không nhắc đến "Đại Ngu" (Triều đại nhà Hồ). Tức là tác giả không công nhận triều đại nhà Hồ.
Đã là một nước độc lập, có chủ quyền lãnh thổ, thì không thể có bất kỳ một cớ gì để cho quân ngoại bang đem quân vào can thiệt chính trường của nước đó cả. Trừ phi là đi xâm lăng. Tác giả đã tuyên bố với kẻ thù và toàn bộ nhân loại rằng: Đại Việt là một nước độc lập. Bất kỳ kẻ nào đem quân vào xâm phạm lãnh thổ Đại Việt là sai; Không sớm thì muộn chúng sẽ bị nhân dân Đại Việt đánh cho tan tành. Lịch sử đã chứng minh điều đó.
Không những là một đất nước độc lập, Đại Việt là một dân tộc anh hùng. Trải qua các triều đại, quân ta đã bao lần anh dũng đánh tan biết bao kẻ thù hùng mạnh. Mỗi đời vua có một kế sách, mưu lược khác nhau, tuy lực lượng của các triều đại có lúc mạnh, lúc yếu; Nhưng không thời nào không có anh hùng, hào kiệt:
Với ý chí kiên cường, bất khuất; Với tấm lòng gian giả, dũng cảm; Với trí tuệ thông minh tài giỏi; Quân và dân ta đã bao phen làm cho quân thù kinh h̕ 1;n, bạt vía. Biết bao quân thù đã từng có binh hùng tướng mạnh, đã từng xâm chiếm nhiều nước trên thế giới; cũng phải thất thủ trên mảnh đất Đại Việt này.
Tác giả đã hùng hồn tuyên bố với kẻ thù rằng: Đại Việt là một đất nước có ngàn năm văn hiến; Đại Việt là một dân tộc gian giả anh hùng; Biết bao kẻ thù hùng mạnh đã thất thủ trên đất Đại Việt. Quân Minh sớm muộn gì cũng bị đánh tơi bời thôi. Và thực tế đã cho các ngư 417;i thấy điều đó.
Bởi tại nhà Hồ làm chính biến, tàn sát các quan cận thần của nhà Trần. Điều đó đã làm cho lòng dân oán hận. Nên không thu phục được nhân tài hào kiệt. Có kẻ muốn làm phản và đã làm phản. Xin nói thêm rằng ban thân Hồ Quý Ly là một quan vị quan đại thần được nhà Trần trọng dụng. Đã không giúp nhà Trần chấn hưng đất nước mà lại đi cướp ngôi vua. Thử hỏi lòng dân làm sao không bất bình cho được? Đó là cơ hội cho kẻ thù đem quân xâm l 432;ợc; Làm cho đất nước lâm vào cảnh nô lệ lầm than.
Dưới thời kỳ cuối của nhà Trần, cho dù các đời vua sau đã bỏ bê triều chính, nhưng nước Đại Việt vẫn thái bình, dân tộc Đại Việt vẫn độc lập.
Nếu không vì lòng tham muốn quyền lực của Hồ Quý Ly: Đã cướp ngôi vua, giết chết khoảng 370 quan lại thân cận của triều Trần làm tội lội tày trời, thì nhà nước ta không bị rơi vào tay nhà Minh. Việc nhà Hồ dời kinh đô về Thanh Hoá cũng đã làm cho lòng dân thêm bất bình. Thanh Hoá là vùng đất đang hoang sơ, chưa hội tụ anh hùng hào kiệt. Kinh đô cũ là nơi ngàn năm văn hiến hội tụ đầy đủ anh tài. Thêm nữa, nhà Hồ lên năm quyền không biết đi thu hút nhân tài, thu ph̖ 9;c lòng dân; Mà chỉ tập trung cũng cố quân sự, cải cách thể chế cai trị và đưa ra những chính sách chưa hợp lòng dân.
Lòng người oán hận là một tất yếu. Sự chống đối, phản kháng và đi đến làm phản là lẽ thường tình. Một số phần tử xấu đã lợi dụng vấn đề này để đi cấu kết với kẻ thù đem bán nước ta nhằm đạt mưu lợi riêng. Để rồi cuối cùng nhà Hồ phải thất thủ, bị quân Minh bắt. Đất nước ta lâm vào xiềng xích nô lệ. Quân Minh đã coi nước ta là một tỉnh của chúng.
Kết quả thật là thê thảm: Đất nước thất thủ, nhà Hồ bị b̑ 5;t, dân tộc bị áp bức, nhân dân bị nô lệ. Biết bao cảnh tàn nhẫn, thương tâm, đau sót đã xẩy ra.
Chúng đã tàn sát nhân dân ta như vậy đó. Thử hỏi còn có loài người nào thú tính hơn. Và còn có hành động nào tàn nhẫn hơn. Chúng tàn nhẫn hơn thảy tất cả muôn loài cầm thú.
Không chỉ dừng lại ở đó, chúng còn dối trời, lừa dân trăm mưu, ngàn kế; Đặt ra đủ thứ suy cao, thuế năng. Trên núi, chúng bẳt dân ta đãi cát tìm vàng mặc cho rừng thiêng, nước độc. Dưới biển, chúng bắt dân ta mò tìm châu báu, mặc cho cá mật, thuồng luồng. Trong rừng, chúng hại dân, bắt muôn thú, đầy bẩy chăng. Trên trời, chúng vơ vét hết chim muông, đầy lưới vây. Cho dù khánh kiệt máu xương, chúng vẫn bắt dân ta phá núi, ngăn sông, đào đất cất gỗ. Miệ ng chúng há, răng chúng nhe. Đến côn trùng cũng hết đường sinh sôi. Con mất mẹ, vợ lời chồng. Nhà cửa, ruộng vườn thảy tan hoang sơ sác. Thật là "Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức" (Tiêu tan hết nghĩa, tổn hại hết nhân, trời đất sao mà thở nổi).
Đúng là không rửa hết nhơ, không ghi hết tội:
Cho nên lòng dân vô cùng phận nộ, trời đất không thể dung tha:
Thử hỏi "nhân nghĩa" ở đâu? Chỉ thấy toàn "hung bạo" với "tàn ác" thôi. "Điếu phạt" chỗ nào? Toàn thấy "quỷ dữ" và "kẻ cướp" thôi.
Đau nổi đau mất nước; Xót nổi xót dân chúng lầm than; Căm thủ nổi căm thù kẻ cướp nước và kẻ bán nước: Phẫn nộ nổi phẫn nộ cảnh tàn sát, bóc lột giả man của kẻ thù đối với đất nước ta, dân tộc ta. Dù cho phải xuất phát từ chốn hoang sơ, nhân neo, lực yếu; Dù cho nhân tài thiếu vắng như lá mùa thu, anh hùng hiếm hoi như sao buổi sáng; Ta cũng quyết tâm dấy binh khởi nghĩa. Bởi một lẽ căm phẫn quân thù, quyết không đội trời chung; Tức giận đến bầm gan, thề không chung sống với lũ nghịch tặc.
Cho nên ta đã:
Trải qua biết bao cảnh đau hết đầu, nhói cả tim đã hơn chục năm nay. Trải qua biết bao cảnh nếm mật đắng, nằm trên cỏ dại đâu phải chỉ ngày một ngày hai.
Cho dù trải bao gia lao khổ hạnh. Lòng căm phẩm đã lên cao trào đến quên cả ăn, luôn dốc sức dồi mài binh thư yếu lược. Luôn xem xưa, nghiệm nay, việc thịnh suy cần phải đắn đo thật kĩ lưỡng. Suy tính luôn hồi, quyên cả ngủ, quyên cả ăn.
Gian truân chẳng quản, thao lược quyết dồi mài, ý chí càng l 234;n cao, ngặt một nối trong lúc thế giặc đang mạnh:
Lại thêm thiếu vắng nhân tài, khan hiếm người xuất chúng như lá trên cây vào mùa thu, như ánh sao lúc buổi sớm.
Cho nên, chưa đủ sức đánh thắng giặc, bị chúng đàn áp, vây bắt ráo riết phải bỏ trốn. Những lúc đó trước sau không có ai hộ trợ. Khi cần bàn bạc, bày mưu tính kế để chiến đấu với quân thù, dưới trướng chỉ có rất ít người giúp đỡ.
Cho dù vậy, trong lòng vẫn chỉ suy nghĩ mỗi việc cứu d& #226;n, cứu nước; Tức mỗi nổi chưa đưa quân tiến về phía đông đánh tan quân thù. Sắm sanh sẵn xe ngựa, chuẩn bị sẵn chỗ, lòng luôn luôn mong ngóng đón người hiền tài đến trợ giúp.
Thế mà, anh hùng hào kiệt ở đâu chẳng thấy. Mong ngóng người ngang bằng đáy bể mò kim. Bản thân luôn mở lòng chân thành. Sự việc hết sức cấp bách, hơn việc cứu người chết đuối.
Trong lòng luôn luôn bồn chồn, lo lắng. Bởi lẽ một phần là căm phẫn quân tàn ác chưa bị diệt h 7871;t. Một phần lại lo vận nước gặp phải khó khăn.
Không lo làm sao được. Nghĩa quân trong lúc đang trải qua biết bao gian truân vất vả như thế. Nào quân hết, nào lương cạn, nào quân giặc vây đuổi ráo riết, phải tháo chạy khắp nơi. Hết đến Lương Sơn lại sang Khôi Huyện. Lương thực có khi hết cả tuần (10 ngày). Quân lình có lúc không có một lữ (Một lữ khoảng 500 người).
Cho dù gian nan vất vả đến đâu, trong lòng vẫn luôn luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày mai thắng lợi. Lu 244;n coi đây là thử thách được trời đất giao phó, phải vượt qua. Lòng càng thêm quyết tâm, khắc phục mọi khó khăn.
Lòng đã quyết tâm, gian nan vất vã rồi cùng qua đi. Cơ hội lại về. Dễ trăm lần không dân cũng khó. Khó vạn lần, dân liệu cùng xong. Ý chí đã hợp với lòng dân, thì việc được dân giúp chỉ là vấn đề thời gian thôi. Cái gì đến rồi sẻ đền, cái gì qua đi rồi cũng qua đi. Chính nghĩa bao giờ cũng thắng hung tàn. Đó là quy luật tất yếu. Thế ; là, dựng tre làm cờ, dân chúng khắp mọi nơi tụ hội lại giúp. Lấy rượu hoà vào nước sông để khao quân mà tình nghĩa giữa tướng lình đoàn kết, nhất tâm như cha với con. Từ đó, ta dùng chiến thuật tấn công khi kẻ thù không phòng bị, hoặc mai phục rồi bất giờ tiến ra đánh úp; Để lấy lực lượng còn yếu của ta chống lại địch mạnh, lấy quân ta ít địch lại quân giặc nhiều.
Nhờ lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo.
C ho nên đánh trận Bồ Đằng mạnh mẽ như sấm vang, nhanh chóng như chớp dật. Đánh tiếp trận Trà Lân quân ta như thế chẻ tre, giặc thua mù mịt như tro bay:
Khí thế quân ta càng tăng, quân thù vô cùng hoảng sợ. Trần Trí, Sơn Thọ mới nghe đã mất hết hồn vía. Lý An, Phương Chính tìm cách bỏ trốn.
Hai trận mở đầu đã tạo khí thế cho quân và dân ta. Chiến công ngày càng dần đập. Thắng lợi ngày càng vẻ vang. Quân thù ngày càng khuất phục, chuyển mạnh thành yếu. Quân ta khí thế ngày càng quật cường, chiến công ngày càng dòn dả. Cuộc kháng chiến đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thừa thắng xông lên, Tây Kinh quân ta chiếm giữ. Tuyển quân tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Tại Ninh Kiều, máu chảy thành sông, mùi hôi tanh bay đi vạn dặm. Ở Tốt động, thây chất đầy đồng, mùi hôi thối để lại đến ngàn năm sau chưa hết. Trần Hiệp, một tên quan thân tín của giặc, phải chịu chém. Lý Lượng, một kẻ túc kế, đa mưu cũng phải p hanh thây. Vương Thông đem quân giải vây, ngang bằng đem dầu đổ vào lửa. Mã Anh đem quân tiếp viễn chẳng khác cơm đang sôi lại thêm lửa. Thấy giặc thất thế, ta đã dụ hàng. Nhưng giặc không chịu. Không những thế, chúng còn cầu cứu quân từ chính quốc sang tiếp viễn. Tháng 09 năm Đinh mùi (1427), Liễu Thăng dẫn đầu một đội quân từ Khâu Ôn vào tiếp viễn. Cũng tháng 10 năm đó, Mộc Thạch dẫn theo một toán quân khác từ Vân Nam vào chi viễn. Quân ta biết trước ý đồ của chú ng. Một mặt, quân ta chọn điểm xung yếu để phục kích, đánh chặn. Mặt khác, ta cho quân bao vây từ phía sau cắt đứt nguồn tiếp viễn lương thực. Thực hiện đúng kế sách đã định, ngày 18 tháng 10 năm đó, tại Chi Lăng, Liễu Thăng thu chạy. Quân ta đã truy đuổi, ngày 20, tại núi Mã Yên, Liễu Thăng hoàn toàn thất thủ và bị chém đầu. Bị quân ta vây hãm, Bảo Định bá Lương Minh tử trận. Không thể chống cữ nổi, ngày 28, Lý Khánh Thượng thư tự vận. Quân ta thừa thắng x 244;ng lên. Quân giặc nội bộ lục đục, đâm chém lẩn nhau. Cuối cùng, chúng phải xin hàng. Thôi Tụ Đô đốc quỳ dân sớ, Thượng thư Hoàng Phúc tự trói tay. Cánh quân tiếp viễn do Liễu Thăng chỉ huy bị tan rã. Ở Lạng Giang, Lạng Sơn, thây giặc chất đầy đường. Tại Xương Giang, Bình Than, máu chiến chảy thành sông.
Cảnh tượng ấy đã làm cho mây gió phải biến sắc, ngày đêm đến tối sầm.
Đối với cánh tiếp viễn của Mộc Thạnh. Quân ta chặn đánh tại Lê Hoa. Bị b 7845;t ngờ, quân giặc la hét đến vỡ mật. Nghe tin Thăng thua ở Cẩn Trạm, quân Mộc Thạnh, hoản loạn, dậm lên nhau tháo chạy để thoát thân. Cánh quân cứu viễn thứ hai cũng bị tan rã. Ở Lãnh Câu máu chảy đầy suối, tắc cả khúc sông. Tại Đan Xá xác giặc chất thành núi, đồng cỏ mênh mông một màu máu.
Hai cánh quân chi viễn bị thất thủ. Tướng sĩ quân giặc ở các thành nghe tin phải quy hàng. Việc nhân nghĩa của ta lúc này mới thể hiện. Với lẻ thường tình thì, sau khi bị bắt, qu& #226;n giặc phải bị đưa ra xét xử và hoặc xử tử, bắt làm tù binh. Nhưng quân ta không làm vậy, mà mở đường hiếu sinh. Một mặt cấp cho hơn năm trăm tàu lớn để Phương Chính, Mã Kỳ về nước bằng đường thuỷ. Mặt khác cấp cho vài ngàn ngựa tốt để Vương Thông, Mã Anh về nước bằng đường bộ. Còn gì nhân nghĩa hơn.
Phần vì tính nhân đạo đối với quân thù. Phần để bảo toàn lược lượng, dân chúng được nghỉ ngơi. Nên quân ta đã khô ng truy quét đến cùng. Còn cấp cho tàu thuyền và ngựa để tàn quân của giặc về nước. Đúng là một kế sách xưa nay hiếm. Nếu không muốn nói là kế sách sâu xa của quân Lam Sơn.
Cuộc chiến tranh kết thúc. Đất nước sạch bóng quân thù. Xã tắc từ đây bình yên. Giang sơn từ đây bền vững. Dân chúng từ đây ấm no, hạnh phúc. Trời đất, ngày đêm từ đây vui vẻ. Vạn kiếp sau sẻ được hưởng thái bình thịnh trị từ đây. Nổi ô nhục mất nước từ đ ;ây không còn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
(Đặt nền móng bình an cho xã tắc,
Thay đổi quang cảnh cho núi sông,
Trời đất hết ngang trái, trở lại yên vui,
Ngày đêm hết tối tăm, sáng láng trở lại,
Mở đầu thái bình cho vạn đời,
Làm cho tuyết, trời đất hết nổi ô nhục.)
Có được chiến thắng hôm nay, trước hết là nhờ tinh thần đoàn kết nhất tâm cao của dân chúng như tình cha con. Ngoài ra, còn có sự ngầm giúp đỡ, che chở của tổ tiên, trời đất mới có chiến thắng này.
Than ôi! Cuộc kháng chiến vô cùng vĩ đại. Chiến công oanh liệt biết bao. Bốn bể đã thanh bình. Nay rộng ban bố cáo khắp nơi kỷ cương mới của đất nước để khắp xa gần tất cả đều được nghe, đều được biết.
Tóm lại, thông qua thể văn cáo, đã t 43;m tắt một cách đầy cuộc kháng chiến vĩ đại của Nghĩa quân Lam Sơn. Sau gần 10 trường kỳ kháng chiến, cuộc khởi nghĩa đi đến thắng lợi cuối cùng. Tác phẩm cũng đã tóm tắt tội ác tày trời của quân nhà Minh, đã đàn áp bóc lột nhân dân ta vô cùng thậm tệ. Tác phẩm cũng đã nêu cao tính thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc ta, một dân tộc anh hùng, đã từng đanh tan biết bao quân xâm lược. Tác phẩm cũng đã tố cáo tội lỗi của nhà Hồ, 3;ã làm chính biến, để cho lòng dân oán hận muốn làm phản, tạo cớ cho quân Minh đem quân xâm chiếm nước ta. Tác phẩm cũng đã tuyên bố rộng khắp nền độc lập của đất nước, và ban hành bộ luật mới để trị vì đất nước. Tác phẩm không quên cảm ơn mọi sự giúp đỡ cho cuộc khởi nghĩa để cuộc khởi nghĩa có thắng lợi hôm nay.
là một bản anh hùng ca bất hủ, tuyên bố độc lập cho đất nước và mở ra một triều đại mới, triều đại Hậu Lê. Tác phẩm đã để lại đất nước và hậu thế một minh chứng hùng về ý chí anh dũng quật cường của một dân tộc anh hùng. Tác phẩm là một áng văn chương bất hủ với đầy đủ mọi ý nghĩa, tính chất, văn phong, tư tưởng của một đại thi hào lớn. Đọc tác phẩm, chúng ta học tập biết bao điều từ đó. Một tác phẩm vĩ đại v& #244; cùng.